Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, những người phụ nữ kiên trung luôn hiện lên như ánh sáng soi đường giữa bão giông xâm lược. Một trong những hình tượng rực rỡ nhất, sánh vai cùng Hai Bà Trưng, Bà Triệu… chính là nữ tướng Lê Chân – người đã biến bi kịch đời mình thành bản anh hùng ca, từ một cô gái nơi ven biển trở thành vị tướng lẫy lừng, khắc tên vào sử xanh.
- Yết Kiêu là ai mà khiến quân Nguyên khiếp vía trên sông Bạch Đằng
- Côn Sơn – Vì sao Nguyễn Trãi chọn làm nơi dừng chân?
- Mai Phương Thúy nhập viện giữa lúc dùng bữa: Sức khỏe của nàng hậu khiến fan lo lắng
Khởi nguồn từ một tấm lòng hiền hậu và chí khí bất khuất
Theo sách “Đại Việt sử ký toàn thư” cùng các tư liệu dân gian, Lê Chân sinh khoảng cuối thế kỷ I tại trang An Biên (nay thuộc xã An Thủy, thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh). Bà là con gái của Lê Đạo – một danh y nổi tiếng trong vùng, sống nhân nghĩa, hết lòng cứu dân giúp đời. Chính nền tảng gia giáo này đã sớm vun đắp cho Lê Chân một tâm hồn nhân hậu, giàu lòng yêu thương và đặc biệt, một trái tim luôn hướng về dân tộc.
Không chỉ được giáo dục trong nếp nhà đạo đức, Lê Chân còn nổi bật với tư chất thông minh, dũng cảm và say mê võ nghệ. Truyền thuyết kể lại rằng, thuở thiếu thời, bà thường luyện tập binh khí bên bãi biển, rèn thể lực trong sóng gió quê hương, tự mài giũa bản thân như thể linh cảm trước định mệnh binh nghiệp phía trước.
Vẻ đẹp dung nhan, tài năng lẫn đức hạnh của bà nhanh chóng vang xa, đến tai thái thú Tô Định – viên quan nhà Đông Hán tàn độc. Khi Tô Định ngỏ lời cưỡng ép bà làm tỳ thiếp và bị khước từ, hắn đã trả thù bằng cách sát hại cha mẹ bà. Bi kịch mất cha mẹ đã trở thành cú hích mạnh mẽ, biến cô gái trẻ thành một người phụ nữ mang trong tim nỗi đau hóa thành ý chí, nung nấu mối thù nhà nợ nước.
Lê Chân – Từ người dân bình dị đến vị tướng khai cơ đất mới
Lê Chân rời quê hương theo dòng Kinh Thầy xuôi nam, dừng chân ở vùng đất hoang sơ ngã ba sông Kinh Thầy – Vận – Cấm (nay thuộc Hải Phòng). Tại đây, bà khai phá lập làng, đặt tên làng theo quê cũ là An Biên, chiêu mộ dân lành, vừa ổn định cuộc sống, vừa âm thầm chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa chống Hán.
Bà tổ chức đào tạo dân binh – cả nam lẫn nữ – luyện tập thủy chiến, đột kích và chiến đấu linh hoạt. Theo “Lịch sử Hải Phòng” (NXB Chính trị Quốc gia, 2010), Lê Chân đặc biệt chú trọng huấn luyện thủy binh, tự đóng thuyền chiến từ chính bàn tay dân làng, tạo nên lực lượng chiến đấu vừa thiện chiến vừa gắn bó với nhân dân.
Không chỉ là tướng lĩnh, Lê Chân còn là người mẹ tinh thần của cả cộng đồng An Biên, tổ chức dạy dân nghề trồng dâu, nuôi tằm, đánh cá, phát triển buôn bán… tạo nền tảng cho một cộng đồng kinh tế – quân sự vững chắc nơi ven biển. Bà hiện lên như một nhà kiến thiết toàn diện: biết quy hoạch, tổ chức, huấn luyện, đồng thời gieo mầm văn hóa và đạo đức.
Vai trò chiến lược trong khởi nghĩa Hai Bà Trưng
Khi Hai Bà Trưng dựng cờ khởi nghĩa vào mùa xuân năm 40; Lê Chân nhanh chóng mang theo toàn bộ lực lượng từ An Biên gia nhập phong trào. Với chiến thuật táo bạo, bà đánh chiếm các đồn ven biển, giải phóng một vùng rộng lớn, rồi hội quân cùng Hai Bà Trưng tại Mê Linh, hợp lực tiến đánh thành Luy Lâu – trung tâm cai trị của nhà Hán ở Giao Chỉ.
Với những chiến công hiển hách; Trưng Trắc sắc phong Lê Chân làm “Thánh Chân công chúa”; giao trọng trách “Chưởng quản binh quyền nội bộ” và “Trấn thủ hải tần”. Điều này khẳng định vị thế quan trọng của bà trong bộ máy khởi nghĩa; trở thành một trong những trụ cột quân sự tin cậy của chính quyền mới.
Theo sách “Danh nhân Hải Phòng” (NXB Hải Phòng, 2005); Lê Chân là người đã xây dựng lực lượng hải quân mạnh mẽ, giữ vững tuyến phòng thủ Đông Bắc; đồng thời tạo bàn đạp cho các đợt phản công khi giặc trở lại.
Bi tráng khúc cuối và cái chết hóa bất tử.
Sau một năm ngắn ngủi của nền độc lập đầu tiên; nhà Hán phản công quyết liệt với đại quân do Mã Viện chỉ huy. Dù tương quan lực lượng chênh lệch; quân khởi nghĩa dưới sự chỉ huy của Lê Chân; vẫn chiến đấu anh dũng tại nhiều mặt trận như Lạng Sơn; Hải Phòng, Kiến An, Thái Bình.
Trong trận đánh ác liệt tại Lạt Sơn (nay thuộc huyện Kim Bảng, Hà Nam); vào ngày 25 tháng Chạp năm 43, nữ tướng Lê Chân đã anh dũng hy sinh; kết thúc một cuộc đời ngắn ngủi nhưng rực rỡ khí phách; để lại một di sản tinh thần không thể phai mờ.
Lê Chân – Vẻ đẹp truyền thống ẩn sau chiến bào
(Ảnh: Cổng TTĐT quận Lê Chân)
Điều làm nên sức sống lâu bền của hình tượng Lê Chân không chỉ là chiến công; mà còn là vẻ đẹp truyền thống mà bà mang trong mình. Dù xuất hiện trong sử sách như một vị tướng dũng mãnh; bà vẫn giữ trọn phẩm chất của người phụ nữ Việt xưa: hiếu nghĩa; đoan trang, sống nhân ái và biết hi sinh.
Sách “Nữ tướng thời Trưng Vương” của Nguyễn Khắc Xương từng viết: “Bà là đóa hải đường biết nở giữa phong ba”. Bi kịch mất cha mẹ không làm bà trở nên hằn học hay tàn độc; mà ngược lại, Lê Chân biến nỗi đau thành hành động; lấy lòng dân làm gốc, lấy việc dựng làng, lập ấp làm nền cho kháng chiến.
Từ hình ảnh một người con hiếu thảo đến thủ lĩnh quân sự tài ba; từ người mẹ tinh thần của dân làng An Biên đến vị tướng đứng đầu thủy binh kháng Hán. Bà hội tụ đủ mọi phẩm chất lý tưởng của một người phụ nữ Việt Nam; dù trong thời bình hay chiến trận.
Lê Chân – Di sản tinh thần sống mãi cùng dân tộc
Sau khi bà mất, nhân dân lập đền thờ bà tại Đền Nghè – trung tâm linh thiêng của Hải Phòng ngày nay. Tên bà được đặt cho một quận trung tâm của thành phố; và tượng đài Lê Chân sừng sững trước Trung tâm Triển lãm và Mỹ thuật TP. Hải Phòng (quận Lê Chân, trung tâm TP. Hải Phòng); đồng thời, tên của bà được đặt tên cho giải thưởng “Nữ tướng Lê Chân”; để trao cho những phụ nữ có thành tích xuất sắc của đất Cảng.
Năm 2016, Lễ hội truyền thống Nữ tướng Lê Chân chính thức được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia – sự tôn vinh xứng đáng cho một nhân vật lịch sử vừa có công với nước; vừa là tấm gương về đạo đức, lòng nhân hậu và ý chí kiên cường.
Kết tinh của truyền thống – cảm hứng cho mai sau
Lê Chân không chỉ là tướng lĩnh đầu tiên từ vùng đất Hải Phòng; không chỉ là người góp công vào cuộc khởi nghĩa chống Bắc thuộc đầu tiên trong lịch sử dân tộc; mà còn là hiện thân của một mẫu hình phụ nữ lý tưởng – dám sống; dám hi sinh, dám lãnh đạo, nhưng luôn lấy con người làm trung tâm.
Câu chuyện của bà là minh chứng cho sự bền bỉ; bản lĩnh và khả năng lãnh đạo của phụ nữ Việt Nam – những người không chỉ biết giữ nhà mà còn biết dựng nước.
Ngọn lửa mà bà thắp lên – về lòng yêu nước, về sức mạnh của phụ nữ; về tinh thần “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” – vẫn còn cháy mãi trong lịch sử.
“Lê Chân một đóa hải đường,
Gieo mình giữ nước, tỏa hương muôn đời.”
Trong bối cảnh hiện đại, tấm gương của Lê Chân thôi thúc thế hệ trẻ giữ vững ý chí; dũng cảm vượt qua nghịch cảnh; dám dấn thân để viết nên trang sử của chính mình. Nhìn về bà; ta không chỉ tự hào mà còn thấm thía giá trị của lòng trung hiếu; của tình yêu quê hương bắt nguồn từ từng nắm đất, từng cơn sóng; từng giọt mồ hôi trên mảnh đất An Biên ngày ấy.