Chữ Nhân là tiếng Hán được viết “人”, trong tiếng Việt có nghĩa là “Người”. Chỉ cần hai nét bút để viết chữ nhân (人), đơn giản vậy thôi nhưng ý nghĩa nhân sinh của hai nét bút ấy thì là cả một đời người tu dưỡng.
Kỳ thực để viết chữ nhân (人) thì rất đơn giản; nhưng hàm chứa đạo làm người vô cùng sâu sắc. Chữ hán là chữ hình tượng; là văn tự duy nhất hiện nay có thể diễn tả như một câu chuyện ở trong đó. Mỗi nét bút đều ẩn chứa nội hàm phong phú, chữ Nhân (人) là một ví dụ cho chúng ta thấy điều đó.
Chữ Nhân (人) một nét biểu thị của tinh thần, một nét biểu thị thân thể người
Theo nghĩa tiếng Trung thì chữ “人” (nhân) gồm một nét phẩy và một nét mác. Nét phẩy bên trái; còn nét mác ở bên phải để hợp thành chữ “人” nhân. Theo lý luận của Đạo gia, phía bên trái là dương bên phải là âm, đây cũng chính là thể hiện của Đạo.
Nguyên lý thái cực cho rằng; tương ứng với âm dương lần lượt là vật chất và ý thức. Đối chiếu với con người thì chính là thể xác và tinh thần. Trong đó tinh thần thuộc về dương, là chủ ý thức. Thể xác hay thân thể người thuộc về âm, là dụng thân thể, ứng dụng.
Tinh thần là chủ thể của bản thân chúng ta. Bởi vậy một cuộc sống có chất lượng tinh thần cao là điều mà con người hướng tới. Tinh thần chính là bản thân mình; thân thể con người vì có tinh thần mới sống và hoạt động. Trong cách viết chữ nhân “人”, thì nét phẩy thường dài còn nét mác thường ngắn, nét phẩy thường cao còn nét mác thường thấp.
Một người nếu đeo đuổi dục vọng; truy cầu vật chất, tiền tài quá độ; mà rơi rớt hết cả tinh thần, đạo đức, ý thức thì đã không còn là một người bình thường nữa; đừng nói đến việc có thể làm người trí huệ. Kiểu người như vậy chính là “âm thịnh dương suy“. Cách viết của chữ “人” (nhân) sẽ bị đảo ngược; trở thành chữ “入” (nhập). “Nhập” chính là: Nhập mê; nhập vào dục vọng; nhập vào ngu dốt; cuối cùng tiến nhập vào địa ngục.
Lời giáo huấn của các bậc thánh hiền luôn hàm chứa một giá trị tinh thần thâm sâu, lớn lao.
Một nét biểu thị cho sự tiến lên, một nét biểu thị cho sự thoái lùi
Đời người tựa như leo núi; từng bước từng bước hướng lên mà leo. Nhưng khi đã lên đến đỉnh núi thì lại từng bước từng bước hướng xuống.
Những người kiên trì leo được lên đến đỉnh cao là người đáng kính. Nhưng lên đến đỉnh cao mà không lưu luyến địa vị có thể lên được xuống được mới là người đáng trân quý.
Một nét là bản thân, một nét là người yêu thương
Vợ chồng là trợ thủ đắc lực của nhau. Tay trái xách đồ vật mệt mỏi, không cần mở miệng nhắc nhở mà tay phải cũng tự nhiên đưa qua xách thay.
Tay trái bị thương cũng không cần kêu la, cầu cứu; tay phải tự nhiên sẽ gánh vác thay cho tay trái.
Một nét biểu thị cho niềm vui, một nét biểu thị cho phiền não
Niềm vui và phiền não hay hạnh phúc và thống khổ, đều song hành tồn tại, có thể khích lệ nhau tiến lên. Con người khi trải qua phiền não, thống khổ mới cảm nhận hết được niềm hạnh phúc của cuộc đời.
Một nét là nửa đời trước, một nét là nửa đời sau
Nửa đời trước bén rễ, nảy mầm, nở hoa; nửa đời sau là kết quả, là thu hoạch, là cất trữ. Con đường đời mặc dù dài; nhưng điều quyết định có khi chỉ là mấy bước cuối cùng.
Chỉ hai nét tạo nên chữ “人” đơn giản thế thôi, nhưng câu chuyện về đạo làm người lại vô cùng sâu sắc
Khi sáng tạo chữ “人” nhân; người xưa đã truyền tải thông điệp về thái độ kính Thần cho con người thế gian. Chữ tượng hình “人” nhân; giống như chắp tay trước ngực là hoàn toàn tương đồng. Cũng là nói rằng con người tin tưởng vào Thần và sống có đạo lý; đối với Thần cần phải có thái độ tôn kính.
Chữ nhân (人) bao gồm hai nét; thiếu một nét sẽ không thành. Hai nét phối hợp với nhau phụ trợ cho nhau; mới trở thành nhân sinh hoàn chỉnh. Con người là thể hiện của Đạo; làm người nên có tâm cầu Đạo, cũng nên tu Đạo đắc Đạo, trở thành “Chân Nhân”; đây mới là mục đích duy nhất để làm người.
Thế giới này vô cùng rộng lớn; nhiều người có tính cách và lối sống không nhất định phù hợp với quan niệm của chúng ta. Ngay chính lối sống của chúng ta; cũng không nhất định là phù hợp với quan niệm của người khác. Cho nên mọi người đều nên khoan dung; nhường nhịn, hòa thuận với nhau.
Xem thêm: